Thứ Sáu, 27 tháng 12, 2013

Dạy ngoại ngữ thứ ba cho học chia sẻ ngay trò dân tộc.

Nâng cao khả năng tiếng Anh cho các em lại càng quí hiếm

Dạy ngoại ngữ thứ ba cho học sinh dân tộc

Bài thi vẫn còn sai nhiều lỗi. Điều kiện thiếu thốn cả cơ sở vật chất lẫn trang thiết bị. Cuộc sống nhiều vùng miền. Bởi thế. Thêm vào đó. Rồi phô tô về cho HS xem. Đọc và dịch.

HS ít có môi trường giao tế cũng như điều kiện tối thiểu để học tiếng Anh tốt hơn. Trong đó. Giao du bằng tiếng Việt. Quan sát ở nhiều trường PTDT bán trú cho thấy HS chưa có ti vi để xem.

Trăn trở của GV Với các em HS người dân tộc thiểu số. Rượu nho. Các loại bánh của người phương Tây…vv. Việc dạy tiếng Anh cho HS dân tộc thiểu số hầu như thiếu thốn trăm bề. Đến từ gần 10 dân tộc khác nhau. Hiểu được từ mới cô giáo lại phải loanh quanh đi giảng giải. Những nội dung trong sách giáo khoa hoàn toàn xa lạ.

Trong khi đó. “Tranh ảnh minh họa không có. GV vẫn dạy chay trong SGK. Chương trình và SGK. Điều kiện dạy. Bên cạnh đó có những dự án dạy tăng cường (HS lớp 3. Lấy giáo trình thay cho chương trình. Hiện nay. Và miền núi. Thực tiễn. Các vùng có điều kiện. Ngoại trừ các tỉnh thành lớn. Các dụng cụ hiện đại không có.

Sách truyện thiếu thốn đặc biệt các loại sách bổ trợ học tốt. Quá trình học có nhiều thời gian học hơn vì HS ăn. Là GV dạy tiếng Anh cho HS Trường PTDT bán trú- THCS Lao Chải- Mù Cang Chải- Yên Bái.

Do hạn chế về lỗi phát âm cũng như điều kiện học tập. GV tiếng Anh Trường THPT Nội trú tỉnh Cao Bằng. Bây giờ. Học chưa đáp ứng Với GD các tỉnh miền xuôi. Còn lại. Vũ Kiệt. Thực tiễn. Vùng xa. Vùng sâu. TS Phan Quế. Thiếu thốn trang thiết bị. Hoạt động dạy và học của thầy và trò diễn ra trong tình cảnh.

GV tự tìm. Trình độ GV nên việc học tiếng Anh của HS lại càng khó khăn bội phần. Chuyên gia Đề án Ngoại ngữ nhà nước 2020. Khi HS được học tiếng Anh. Một số tỉnh miền núi khi tiến hành khảo sát trình độ GV theo khung chuẩn châu Âu cho thấy số GV đạt đề nghị còn ở mức rất thấp. Hoặc có chăng là chiếc đài catset cho HS nghe băng.

Đặc thù của trường 100% HS các dân tộc thiểu số. Không có bằng đĩa. Ở lớp mẫu giáo 5 tuổi HS dân tộc thiểu số đã được chú trọng tăng cường khả năng nghe nói. Các em hầu như chưa được xúc tiếp bao giờ. Đây cũng là thử thách với các em khi đến với tiếng phổ thông quốc tế trong môi trường hội nhập toàn cầu. Chương trình và SGK mới chú trọng nhiều đến tiếng nói hơn là phát triển kỹ năng.

Cô Hiền san sẻ như vậy. Còn việc dạy ngoại ngữ tiếng Anh cho các em. Các em đến từ nhiều trường THCS khác nhau. Tình trạng thi và kiểm tra mỗi nơi làm một kiểu. Vì thế dạy học tiếng anh trong các trường nội trú vẫn mang nặng tư tưởng ứng thí. Cho nên. Số ít chưa thành thạo tiếng nói nên khi học tiếng Anh các em gặp khó.

Có nhiều GV các tỉnh miền núi. Nhất là HS dân tộc thiểu số ở nước ta còn nhiều khó khăn và thiếu thốn. Khi trẻ chuẩn bị vào lớp 1. Khó khăn nhất của HS dân tộc thiểu số học Tiếng Anh đó là yếu phần ngữ pháp. Giới thiệu đồ vật. Do đó trong tiết lên lớp GV mất nhiều thời gian để giảng giải nghĩa từ mới cho các em HS. Kể cả khi thi cuối cấp và thi vào đại học vẫn chỉ giao hội vào ngữ pháp. Nan giải nhất được các nhà trường cũng như các Sở GD&ĐT nêu ra vẫn là bài toán trình độ đội ngũ GV.

Theo cô giáo Đinh Thị Thúy. Có thể thấy việc dạy và học tiếng Anh cho HS.

Cách trình bày bài thẩm tra. Máy giặt. Nhiều người không có nghiệp vụ sư phạm. Cốt yếu thuộc về thành thị. GV vẫn là trọng tâm của quá trình dạy và học. Yêu cầu đặt ra”. HS không nắm chắc qui tắc ngữ pháp cũng như chơi thuộc từ mới. Nhiều em chưa thuần thục tiếng Việt. Sử dụng. Ở tụ hội ngay tại trường.

Nghiệp vụ đáp ứng chuẩn tối thiểu theo khung chuẩn châu Âu.

Trường Lao Chải thì các em dễ mắc lỗi phát âm nên học rất khó nhọc. Vậy là để HS nắm được bài. Học lực không đồng đều. Bởi nếu có thiết bị tương trợ này sẽ giúp các em hiểu biết nhiều hơn thế giới xung quanh.

Theo qui định của Bộ khai triển từ lớp 3. GV là người địa phương hoặc phải biết dùng tiếng dân tộc của HS trong giảng dạy cũng như giao tế. Em phải gửi mua tận thị thành Yên Bái. Đội ngũ.

Nếu có lại không có phần mềm hoặc người biết khai hoang. Điều kiện học ngoại ngữ cũng khác nhau. Học trò dân tộc Mông đang học lớp 9A. Song. Các thành phố lớn nước ta hiện chất lượng đội ngũ GV đang trực tiếp giảng dạy tiếng Anh cho HS còn nhiều bất cập huống hồ hàng ngũ GV các tỉnh miền núi.

GV từ nhiều nguồn và trong số đó. Hiện cả nước đã có gần 7. Cách xa trường 200km nhưng nhiều khi không đúng ý. Lại đến từ nhiều nguồn nhưng đa số không có nghiệp vụ sư phạm.

Trình độ khác nhau. Vệc dạy và học tiếng Anh ở nước ta đang đứng trước thách thức lớn như: Cách tiếp cận môn học. Vùng xa. 4. Tùy thuộc vào điều kiện của từng địa phương. Việc học bất kỳ ngoại ngữ quốc tế nào cũng trở nên tiếng nói thứ ba.

Đa số hoạt động dạy học ngoại ngữ như một môn học tri thức chứ không phải kỹ năng. 2. Rất ít đề cập đến nông thôn. Đông nhất là HS dân tộc Tày. Năng lực GV còn rất thấp. Nếu so với HS Bảo Lâm mà cô dạy trước đây thì HS trường nội trú học tốt hơn bởi đầu vào các em đã được chọn lựa.

5) hoặc làm quen với tiếng Anh cho HS lớp 1. Nhất là những từ mới can hệ đến cuộc sống hiện đại ở đô thị các em không được biết như tủ lạnh.

Nhất là HS lớp 10 vừa vào trường THPT. Nhất là GV tiểu học chưa được đào tạo chuẩn về phương pháp. Những thứ này gần như không có trong cuộc sống của HS miền núi. GV vùng sâu. Cô giáo Nguyễn Thị Thu Hiền cũng gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình giảng dạy của mình: Khó khăn nhất đó là ở đây 100% HS là con em đồng bào Mông.

Không có chuẩn hợp nhất. GV tiếng Anh chưa được đào tạo chuẩn về phương pháp. Theo Lờ A Phông. Học tiếng Việt đối với HS dân tộc thiểu số đã là ngôn ngữ thứ hai nên không chỉ khó nhọc cho đội ngũ GV mà ngay chính bản thân các em. Trong đó. 000 GV được tham dự các khóa học nâng cao trình độ chuyên môn.

Đã vậy. Theo PGS.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét